Cảnh trong phimBến không chồng ***** Những tháng năm đầy biến động giữa thế kỷ 20 chứng kiến bao sự kiện đặc biệt của lịch sử tổ quốc: Hòa bình lập lại sau chín năm đánh đuổi thực dân Pháp, chấm dứt bằng chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội cùng hiệp định Genève đem lại hòa bình cho miền Bắc. Giang san từ nay lâm thời bị chia đôi tại vĩ tuyến 17; cùng lúc đó, đế quốc Mỹ bắt đầu đặt chân lên miền Nam Việt Nam, mở màn giai đoạn chiến đấu ác liệt mới. Năm 1954, làng quê miền Bắc gần như trống lổng: đồng ruộng tả tơi, thôn ấp tiêu điều; cái nghèo cái khó len vào từng truông ngõ, hiển hiện trên bộ mặt mệt mỏi của những ông bà già lẫn những người trẻ tuổi từ đầu làng đến cuối xóm. Dốc lực cho cuộc chiến vệ quốc, làng Đông cũng như bao thôn ấp khác, giờ đây chỉ còn lại những người già với đông đảo các thế hệ đàn bà, từ các cụ bà, các quả phụ đến các cô, rồi các em gái mới lớn… bóng vía người nữ gắn liền với làng quê thuở ấy, trở thành một trong những tượng trưng xao xuyến trong đời sống làng quê thời hậu chiến. Các tác ra điều phim đã xộc thẳng vào làng, bằng tư thái của người trong cuộc; mổ xẻ, phản ảnh tường tận khuân mặt bên ngoài cũng như bên trong những đoạn đời xấu số – sản phẩm của chiến tranh cùng tập tục lạc hậu, định kiến khe khắt của làng. Chủ tâm đề đạt của các tác giả phim tụ hội vào thân phận người phụ nữ thời chiến và hậu chiến. Những mất mát, đau đớn của họ lúc hữu hình, lúc vô hình; lúc nào cũng gay gắt đắng cay. Sự hy sinh của họ có thể cảm nhận được, song khó có thể thấu hiểu cụ thể, bởi nó vô cực và quá sâu thẳm. Thảm kịch trong tâm khảm các nhân vật tuồng như không thể giải tỏa bởi không có lối thoát tự thân, lại bị ngăn chặn bởi tình cảnh và tập tục. Nó trở thành nỗi đau khắc khoải truyền kiếp của những thân phận đàn bà thôn quê. Trên nỗi đau đó, các nhân vật kiên nhẫn duy trì cuộc sống hẩm của mình; và hầu như không loại trừ một ai, tất thảy đều nuôi dưỡng khát vọng thay đổi cháy bỏng hoặc âm thầm hoặc bùng phát. Đó là dấu hiệu chống cự tự nhiên, hạp với logic tâm lý lẫn sinh lý của nhân vật. Bằng bút pháp tả thực, không lánh né và có phần thô bạo, bộ phim xốc lên, phơi bày gần như tuốt diễn tiến bên trong của thế giới những tâm tư, tình cảm, ước ao sâu kín của người nữ giới… Thông qua hàng loạt tượng trưng và chi tiết, các tác giả soi tìm cái bản chất của hiện tượng mà mỗi nhân vật là đại diện, đi tìm dòng chảy ngầm mang ý nghĩa bản tính. Khắc họa đầy đủ, sắc nét thân phận xấu số của nhân vật trong những điều kiện và hoàn cảnh xác định, là thủ pháp đáng giá được tác giả sử dụng để lên án tình cảnh – mà ở đây là chiến tranh cũng như phê phán điều kiện, là tập tục khắt khe của quê làng. Mâu thuẫn được kết tụ, đẩy lên tới cực điểm bằng cái chết oan khiên của nhân vật Vạn, chứng tỏ tính chất quyết liệt của mối xung đột nội tâm, cũng như mức độ nghiêm trọng trong mâu thuẫn quan hệ xã hội được tác giả đặc biệt tận dụng, như một thủ pháp xây dựng hình tượng gây sốc. Tuy nhiên, bên cạnh ưu thế đã thấy, việc tô đậm quá mức sự thật đời sống và cố ý cường điệu một chiều; có thể tạo ra cảm giác khiên cưỡng, làm giảm niềm tin vào giá trị trung thực của sự kiện. Từ câu chuyện của cá nhân, gia đình; giờ đây, qua phim, đã trở nên sự kiện đáng quan hoài của xã hội mà lâu nay ít được quan tâm. Ý nghĩa nhân bản của tác phẩm được khẳng định từ đấy. Bến không chồngkhắc vào tâm tưởng người xem một ấn tượng chung khá đậm nét. Đó là kết quả dùng sắc sảo thủ pháp “điển hình hóa” trong mọi trường hợp và cấp độ khác nhau. Không gian – địa điểm diễn ra câu chuyện nằm lọt giữa quang cảnh đặc trưng của nông thôn đồng bằng Bắc bộ với bờ tre, giếng thơi, bến nước, đường làng lát gạch lô nhô… Làng Đông như một con thuyền lớn, tải nặng những cảnh đời chắp nối, những thân phận dang dở cùng những tâm sự bất định. Hình thành một đối tượng miêu thuật như vậy, các tác giả đã tạo cơ sở vững cho hệ thống tình huống tiêu biểu nảy. Và theo đó, là sự ra đời của những nhân vật tiêu biểu, mang nguyên tố kì dị. Diễn viên Như Quỳnh vai bà Hơn trong phimBến không chồng Vạn phục viên trở về làng, một sự trở về như là tượng trưng chấm dứt chiến tranh. Hòa bình lập lại với sự trở về của một lính là chuyện thông thường, nó hẹn bao điều an vui hạnh phúc cho bao người. Song ở đây mọi thứ diễn ra không hẳn như vậy. Khi bóng vía người đàn ông hiện về, thôn trang sôi lên, cái sôi nô nức nóng rát bất thường, đặc biệt ở cánh nữ. Hiện tượng này dự báo sự xuất hiện của những tình huống đầy kịch tính trong mai sau. Quả vậy, với bản tính của người lính lâu năm xông pha nơi chiến trận, Vạn không thể dễ dàng rời xa những nguyên tắc cố hữu, luôn khe khắt với bản thân và quen dùng mệnh lệnh. Khi rơi vào giữa những người phụ nữ như Nhân và Hơn; Vạn trở thành cố thủ, cho dù những người nữ giới đó, và cả những cô gái lớp sau, đã không ít lần mở lòng đến với anh. Chừng như ý thức chấp nê cùng tâm lý cô độc đã thấm sâu vào cuộc sống đơn chiếc, tạo ra bức tường khó thể xuyên qua nơi người cựu binh trung niên này. Luôn ngày cùng với cây súng thân thuộc; mở miệng chỉ thốt những lời đơn giản, cộc ngắn; lầm lũi có đến hai mươi năm bên lề cuộc sống gia đình, Vạn như quyết nhận chìm bít tất vào bên trong, chỉ bền chí để lại bên ngoài một vẻ hững hờ, xù xì, thô độc. Sau này, khi Vạn hốt nhiên đổi thay -- thay đổi đột ngột và vô cùng quyết liệt: lần đầu tiên đánh bạo ôm ghì bà Nhân, như mở toang cánh cửa bấy lâu đóng chặt; Lần sau đó, trong thể biến động dữ dội hơn của tiềm thức, Vạn đã cùng Hạnh -- con gái bà Nhân trao thân xả láng như thường còn gì để cất giữ. Sự biến đổi quyết liệt của Vạn là kết quả của quá biểu diễn tiến tâm lý, do cảnh ngộ tác động nên hết sức nóng bỏng và phức tạp, tinh tế. Ở đây, tác giả đã thành công trong nghệ thuật cấu trúc xung đột tâm lý, tạo bất ngờ một cách sinh động khi xây dựng và đặt hai hình tượng khác ngược nhau của cùng một nhân vật lên hai đầu của tiến trình phát triển tâm lý. Từ chỗ là một cựu quân nhân âm thầm, khô, vụng về, nhân vật Vạn về sau đã biến đổi từ bên trong, trở nên người đàn ông quyết đoán, quyết liệt. Đó là cuộc hành trình đớn đau của nhân vật tự lột bỏ ý thức tự kỷ bản năng, phá vỡ vòng kiềm hãm vô hình cũng như hữu hình từ hoàn cảnh sống. Hành động đột ngột của Vạn thoạt cảm nhận, như là một bộc phát tức thì; càng suy nghiệm, sẽ càng minh ngộ rằng đó là điều thế tất. Ưng tình cảm bà Nhân như là việc đặng chẳng đừng sau thời gian dài ôm lưỡng nan, còn việc yêu Hạnh thì như là cơn mưa vội đầu hè sau những ngày tháng tích trữ oi ả. Cái điều có phần vướng vấp trong đời sống thực về mối quan hệ giữa ông Vạn với cả hai mẹ con bà Nhân, trong trường hợp này, với logic nghệ thuật, lại có thể bằng lòng được, bởi đó là lối thoát cần thiết dẫn đến kết cuộc bi đát bằng cái chết của ông Vạn – một cái chết tô đậm chủ đề mang chất giọng chống cự quyết liệt.Bến không chồng, nơi giao hội của những người đàn bà cô đơn, tới lúc này, còn mang thêm ý nghĩa là biểu trưng xui xẻo của những mối tình dang dở. Bà Nhân, bà Hơn – những hình ảnh đại diện lớp đàn bà xấu số do mất chồng sớm, đành lòng ở vậy nuôi con và làm trách nhiệm gia chủ, góp phần một cách thiên nhiên hình thành khuôn mẫu sinh hoạt ở quê làng. Dị biệt với thế hệ trước, Hạnh là tượng trưng của lớp gái trẻ hăng hái đầy sinh khí, song trong cảnh ngộ mặc định, buộc phải chịu chung căn số. Tình cảm và hành động của Hạnh khi chủ động đến với ông Vạn là sự bứt phá tự nhiên của một sức mạnh tiềm thức vốn bị nén ép và buộc phải qua quá nhiều cọ xát đớn đau. Sự “vượt biên” của Hạnh đã tạo ra bước ngoặt cốt lõi đối với quá trình xử lý nghệ thuật nhằm chấm dứt câu chuyện phim, gây ấn tượng và tô đậm ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm. Nghệ thuật diễn xuất chịu sự chi phối của hai mảng nhân vật trong phim: già và trẻ, tạo thành hai phông diễn tương phản nhau. Các vai diễn ông Vạn, bà Nhân, bà Hơn được các nghệ sĩy Lưu Trọng Ninh, Minh Châu và Như Quỳnh mô tả rất sắc nét; tạo ra phong cách trình diễn.# Chung là tiết chế tối đa, biểu thị tính cách và thân phận nhân vật trên nền diễn tâm lý. Do đó, có vẻ họ rất “ít diễn”, mà sống thay nhân vật. Bằng lối bộc lộ thầm lặng, tất tật được cố ý nhấn chìm vào bên trong, chỉ để lộ ra bên ngoài những gì là đặc trưng tiêu biều của nhân vật; chả hạn, vai ông Vạn được bộc lộ dưới dạng khép kín, có phần trễ tràng và hốc hác. Trong lúc đó, vai Hạnh tươi trẻ, hoạt bát, kết hợp ngoại hình với nội tâm, kiến lập sinh động hình ảnh thiếu nữ thời ấy, nơi chốn ấy. Chi tiết trongBến không chồngđược các tác giả cài đặt khéo léo và hợp lý. Để giới thiệu cảnh ngộ đặc trưng của câu chuyện, loạt chi tiết vụn ngắn mang ý nghĩa biểu tượng (và cả ẩn dụ) xuất hiện theo bước chân về làng của Vạn: bãi phân trâu trên đường, đôi bàn chân khô héo của người phụ nữ khó nhọc dấn bước, đứa trẻ ngồi gọn trong chiếc nồi được đội trên đầu, đám đông các bà góa nhan nhản dõi nhìn người lính xuất ngũ, chiếc thuyền trôi nhẹ chất đầy đồ gốm sứ… Khi miêu diễn thân phận phụ nữ, có cảnh người cha bắt giọng cho đám con gái cùng đọc lớn: “Chúng con là lũ vịt trời, bé thì ăn hại lớn thì bay đi!”, rồi cảnh tiếng gào khóc cố đuổi theo bước chân đang vội vã tránh xa của Hạnh… Tiếng kẻng hai lần vang lên trong phim đã trở thành tác nhân tô đậm ý nghĩa đa tầng của cảnh huống. Lần thứ nhất là tiếng báo động khi có người phát hiện ông Vạn ôm bà Nhân và lần thứ hai là hiệu lệnh gọi bà con đến mục kích cảnh ông Vạn chung giường với Hạnh và con gái. Tiếng kẻng ở đây đã biến thành sức mạnh khó cưỡng của tập tục và thành kiến khắt khe của làng. Ống kính máy quay tỏ ra linh hoạt, kết hợp hài hòa động tác động với tĩnh. Nhiều cú lia phức hợp bao quát không gian rộng, đem đến cảm giác khoáng đạt cần thiết sau chuỗi cảnh hẹp với những khuôn hình cận, có khi đặt tả khá căng nặng. Tông màu của phim luôn chuyển đổi theo nội dung; nếu ở đoạn đầu, khi biểu hiện không khí cô độc nặng nề, màu phim chính yếu nghiêng về tím đen; thì về sau, trong những cảnh miêu tả nhịp sống thông thường, đã sáng dần ra. Diễn tả bằng thái độ trực tính, không chút màu mè; các tác giả phim như đã dựng nên một cách sống động hình ảnh của cái thế giới hiện thực đã từng tồn tại ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ hồi giữa thế kỷ 20. Thái độ trình bày đó còn làm cho các Bi kịch cá nhân chủ nghĩa được khách quan hóa trong quang cảnh của từng lớp đương thời. Một đặc sắc khác của bộ phim là đã làm hiển hiện ở khắp các yếu tố tạo nên hình ảnh; từ bối cảnh, không khí đời sống đến bộ mặt con người, trang phục, tập tục…một sắc thái thuần Việt. Bộ phim đã góp tiếng nói mạnh mẽ phá bỏ hàng rào tự kỷ, bớt đi thói ích kỷ, định kiến để hòa vào dòng sống thiên nhiên muôn đời .Bến không chồnglà một trong số không nhiều những tác phẩm phim truyện Việt bộc lộ cá tính và phong cách mô tả rõ nét và độc đáo.
Trần Luân Kim |
Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013
Nhìn lại con đường phim truyện Việt Nam: "Bến không chồng - Nơi tình ái trả giá"
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét