Tử nạn dưới biển sâu Xóm Cao Thắng (xã Kỳ Xuân, huyện Kỳ Anh), nhiều người gọi đùa là “xóm âm binh”. Bởi, xóm nhỏ nghèo từng một thời nổi tiếng có nhiều thanh niên trai tráng đi theo nghề lặn, cái nghề “ăn cơm cõi trần, làm việc âm cung”. Với hồ hết thời kì trong ngày của các chàng trẻ trai là mò mẫm dưới đáy biển, bất chấp gió rét, mưa lạnh và nguy hiểm rình rập. “Tại xã Kỳ Xuân, nghề lặn có từ xa xưa. Bằng kinh nghiệm sông nước của mình, các ngư gia quê tôi vẫn thường chèo thuyền ra biển để lặn tôm, sò về đổi gạo, nuôi sống gia đình. Khi nguồn thủy sản lãnh hải Kỳ Anh ít đi, họ bèn kéo nhau vào các tỉnh phía Nam lặn thuê. Thời kỳ ăn nên làm ra, mỗi tháng, một thợ lặn kiếm được hàng chục triệu đồng!”, Phó chủ toạ HĐND xã Kỳ Xuân Dương Xuân Luyện kể. Từng là một thợ lặn cự phách, đè sóng cưỡi gió, nhưng có lần ông Luyện suýt thiệt mạng vì sự cố chết người trong lúc xuống nước. “Trước khi về làm cán bộ xã, tôi cũng từng là một ngư dân. Theo đám trai làng vào Bình Thuận, tôi xung vào đội quân lặn thuê chuyên đi nhặt sò dưới đáy biển. Thuyền chúng tôi có 6 thợ lặn, mỗi ngày đánh bắt được từ 2 đến 3 tấn sò!”, ông Luyện nói. Sò có nhiều loại, sò huyết, sò mai, sò chạng...Mỗi loại sinh sống ở nhất thiết nước khác nhau. Để lặn được sò mai, các thợ lặn phải xuống sâu từ 30 đến 50 sải nước (mỗi sải nước bằng 1,6m) và ngâm dưới biển nhiều giờ liền. Càng xuống sâu, càng nguy hiểm, áp lực khủng khiếp ở đáy biển có thể khiến thợ lặn đột tử, hoặc gây tai biến, suốt đời tàn phế.
Công việc hiểm nguy, luôn cận kề cái chết nhưng ngư phủ hầu như không được trang bị thiết bị bảo vệ, thợ lặn không biết cách giảm áp trước khi ngoi lên mặt nước và lúc tai nạn xảy ra, nhiều chủ thuyền bỏ mặc nạn nhân. “Buổi sáng, cơm nước xong, thuyền chạy mấy chục hải lý rồi buông neo. Anh em thợ lặn mình trần trùng trục, mỗi người ngậm một cái vòi nối với máy nổ, kèm theo cặp chì đeo trên bụng, nhảy ùm xuống nước”, ông Dương Xuân Luyện nhớ lại. Cặp chì nặng hàng chục kg sẽ “dìm” thợ lặn xuống đáy sâu trên 30 sải nước (gần 50m tính từ mặt biển). Dưới đó, thợ lặn sẽ đi nhặt từng con sò cho vào bao lưới, từ sáng đến tối mỗi người đánh bắt được khoảng 50kg. Mạng sống của thợ lặn không phụ thuộc vào thời tiết, mà phụ thuộc vào chiếc vòi cung cấp dưỡng khí. Nhiều người đang mải mê tìm sò, đột trên thuyền máy ngưng hoạt động. Ngộp thở. Không ngoi lên kịp, ngư phủ đột tử. Không ít người trong số họ vĩnh viễn nằm lại dưới đáy biển ảm đạm.
Mưa chiều giăng kín bãi ngang, quang cảnh quê nghèo càng thêm u ám. Cái nghề nguy hiểm giúp nhiều ngư gia cải thiện cuộc sống một thời, nhưng đã cướp đi nhiều sinh mạng, để lại những vành tang trắng trên đầu quả phụ mất chồng, con mất cha. Ông Trần Hữu Hậu, Phó Chủ tịch xã Kỳ Xuân có anh rể Nguyễn Văn Đông (xóm Xuân Thắng) tử nạn vì nghề lặn, để lại vợ và 2 con. Một nửa đời trai... Ông Đậu Dẫn, nguyên bí thơ Đảng ủy, Chủ tịch UBMTTQ xã Kỳ Xuân nhớ rõ từng hoàn cảnh trái ngang của ngư dân vùng bãi ngang, những người bôn ba vào Nam làm nghề lặn: “Khi ra đi, họ là những thanh niên khỏe mạnh, vạm vỡ. Lúc trở về, nhiều người mang thương tật, tê liệt. Thợ lặn Phạm Văn Diên bị áp lực nước, liệt chân, bỏ làng vào Nam bán vé số dạo; Anh Trần Văn Toản (xóm Trần Phú) chưa lập gia đình, hai chân bại liệt, sống đơn thân. Tại xóm Cao Thắng có 3 thợ lặn bị liệt chân nhà ở gần nhau, mở quán bán tạp hóa kiếm sống qua ngày!”. Nói rồi ông bảo một cán bộ xã Kỳ Xuân đội mưa dẫn chúng tôi vào thăm anh Toản.
“Tôi bị tai biến, dẫn đến liệt hai chân năm 2002, năm đó tôi tròn 23 tuổi. Anh em thợ lặn bị tai nạn nghề nghiệp, nhiều người trẻ hơn tôi, chỉ mới 17, 18 tuổi!”, Toản kể. Trong một lần lặn xuống biển bắt sò ở độ sâu gần 50m, ngư phủ ngoi lên và nhận thấy điều tệ lậu đang đến: Sau khi cởi ống thở ra, anh không thể đứng vững được nữa, ngã vật xuống. Bạn chài lập tức đưa anh trở lại độ sâu vừa lặn để “giảm áp”, nhằm cân bằng trạng thái. Một giờ, hai giờ đồng hồ ngâm mình dưới nước, triệu chứng mỏi mệt tăng dần, chàng thợ lặn không chịu nổi phải lên thuyền và tức tốc quay vào đất liền. Hơn một năm điều trị bằng cách bấm huyệt, châm cứu, chẳng khá hơn. Chàng trẻ trai khi, không còn một xu dính túi. “Bố mẹ đã bán cả trâu bò, vay mượn khắp nơi kiếm tiền chữa trị cho tôi, nhưng kết quả là bán thân bất toại. Những đồng bạc tôi gom góp được suốt mấy năm đi lặn thuê cũng đội nón ra đi. Nghề lặn bạc bẽo vậy đó!”. Chàng ngư phủ cúi mặt, âm thầm. Trong căn lều lụp xụp nằm ở rìa cánh đồng, 6 năm nay anh cô độc một mình kể từ ngày bác mẹ mất. Hai chân tê liệt, hằng ngày anh phải tự xoay xở kiếm sống bằng nghề cắt tóc, nuôi gà. Chàng ngư phủ vâm váp, sức khỏe quán quân ngày nào giờ thành phế nhân, ngày ngày đánh vật với cái kéo, sợi tóc. Đàn gà mấy chục con thỉnh thoảng lại thưa dần. Biết chủ nhà đôi chân bại không đuổi được, bọn đạo chích chờ cho lũ gà lớn, đêm đến xông vào cướp lôi đi. Nghe tiếng gà mẹ gà con kêu choang choang, Toản không thể nào nhổm dậy được, đành bất lực. Đến xóm Cao Thắng, tại ngã ba đường, ba người đàn ông nhà đối diện nhau chống cằm ngồi nhìn mưa bay. Họ là những người mang thương tật vì nghề lặn sò, nặng thì xe lăn, nhẹ nhất cũng phải chống gậy khập khễnh từng bước. Anh Phan Ngọc Sâm, một trong 3 người đàn ông kể: Tai nạn ập đến vào áp Tết Nguyên Đán năm 1998, khi tôi lặn nhào xuống biển tìm sò với hy vọng “kiếm thêm ít tiền để về quê ăn tết”. Sau lần lặn đó, tôi ngoi lên và thấy hai ống chân tê dại. Biết mình bị sức ép nước, tôi chộp lấy ống thở, trở lại độ sâu cần thiết để giảm áp. Suốt 2 tiếng đồng hồ ngâm mình dưới biển lạnh buốt, tôi ngoi lên, cơ thể mệt rời rã. Thuyền trực hướng vào đất liền, chạy được 1,5 hải lý lại thả neo. Tôi lại được đưa xuống nước lần thứ hai, ngâm mình hơn một giờ đồng hồ. Không có chuyên biến gì và chẳng thể chịu nổi giá rét, tôi đành phải lên thuyền. Gió chạy dọc con đường hẻo lánh bãi ngang, trong gió se sắt có vị mặn của biển tan vào, vị mặn tựa thế cục ngư phủ. Ba ngôi nhà nhỏ, lụp xụp ba cái quán bán hàng tạp hóa của ba “phế nhân” xóm Cao Thắng trở về từ biển sâu: Phan Ngọc Sâm, Phan Viết Bình, Bùi Kim Thường. “Đội quân thợ lặn được ví như âm binh, ăn cơm dương thế làm việc âm phủ, vì hồ hết thời gian trong ngày là ở dưới đáy biển. Cơm cháo xong, xuống nước. Lúc nào đói lại lên ăn. Ăn xong ngơi nghỉ dưỡng sức lại nhảy ùm xuống độ sâu 50- 70m nước mò mẫm đáy biển!”, Phan Viết Bình kể. Ám ảnh nhất là lúc thợ lặn xuống sâu 50- 70m nước, đang lặn đột nhiên máy cung cấp dưỡng khí ngừng hoạt động. “Không thở được, ngay lúc đó thợ lặn phải trổ (rút) chốt, tháo cặp chì, bung người lên. Lên nhanh quá, áp lực thay đổi đột ngột, dễ chết! Ngoi lên chậm quá thì không đủ sức bơi tiếp, cũng chết!”, anh Bình san sẻ. Vụ tai biến xảy ra năm anh 21 tuổi, Phan Viết Bình bị thua hai chân, ngồi xe lăn. Tại xã Kỳ Xuân, nhiều trẻ trai cũng rơi vào cảnh ngộ như anh. Hồn treo cột buồm Xã Kỳ Xuân có 1.882 hộ gia đình, 7.446 nhân khẩu, một bộ phận lớn cư dân bản địa sống bằng nghề đánh cá, lặn sò. Phó Chủ tịch xã Kỳ Xuân Trần Hữu Hậu nói hiện nay vẫn còn nhiều người theo đuổi nghề lặn. “Nghề lặn sò, thợ lặn không phải đầu tư vốn, mỗi chuyến đi có thể kiếm được hàng chục triệu đồng, nên dù biết đó là nghề nguy hiểm nhưng khó bỏ!”. Gặp chủ thuyền đàng hoàng, trong trường hợp xảy ra tai nạn khiến thợ lặn tàn phế, họ sẽ hỗ trợ một số tiền đưa đi chữa trị, cấp tiền tàu xe về quê. Nhưng không ít thợ lặn sau khi gặp tai nạn liền bị thải hồi, trơ trọi nơi đất khách quê người với đôi chân kém. Gia đình có người tử vong vì lặn sò, hầu như chủ thuyền chỉ hỗ trợ tiền đưa thi hài về quê, tiền táng. Dọc bờ biển Kỳ Anh (Hà Tĩnh), xã nào cũng có người làm nghề lặn thuê, nhưng đông nhất vẫn là Kỳ Xuân. Trên đường trở lại thị trấn, qua ngõ vắng, qua triền núi nhấp nhô, chúng tôi bắt gặp những căn nhà vắng bóng đàn ông, những phụ nữ bồng con đứng đợi chồng. Nhờ xuất khẩu cần lao và cả nghề lặn, Kỳ Xuân thoát nghèo, song vẫn đơn côi những cánh buồm xa, vẫn đau đáu những cảnh đời đã mất mát, đã thương đau vì nghề lặn, cái nghề nghiệt ngã... Quang Long |
Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013
Xóm âm binh, se sắt những phận đời
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét