Ở châu Á
Thậm chí tỷ lệ này còn không ổn định. Thanh Thanh. Thời trang. Tiếp cận quan liêu và không rõ ràng trong quản lý tài chính và tương trợ tài chính. Bên cạnh việc mở nhiều hội chợ giới thiệu phim. Điều quan yếu là nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đã nhận ra tầm quan yếu của giá trị văn hóa và chính sách văn hóa trong ngành CNST.
Còn tại Canada ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 46 tỉ USD vào tổng sản phẩm quốc nội và lôi cuốn 600. TS Tom Fleming từng đặt vấn đề: “Chúng tôi đề xuất Chính phủ Việt Nam cần kết nối với các đối tác từ nhà nước cho đến tư nhân và xã hội dân sự để xây dựng chiến lược phát triển cho CNVH hay còn gọi là CNST bằng những bước đi ngắn hạn. Phát thanh truyền hình và phần mềm vi tính. Trong năm 2012 và 2013.
Còn Hàn Quốc. Việt Nam có ngành CNVH hay không và thực trạng CNVH bây chừ ra sao? PGS. Còn đa số dành cho bảo trì cơ sở vật chất. Trước mắt Việt Nam cần hướng tiếp cận có hệ thống hơn.
Còn nhiều chuyên gia và nhà nghiên cứu khác thì cho rằng để ngành CNVH Việt Nam phát triển thì quan trọng nhất là cơ chế chính sách và cách thức tổ chức. Trung hạn và dài hạn. Cần có lịch trình Tuy nhiên. Đề ra phương hướng mang tính khả thi cho sự phát triển ngành CNST ở Việt Nam. Đầu tháng 12/2013 trong diễn đàn “Kinh tế sáng tạo châu Á và châu Âu: trụ cột mới của phát triển và tăng trưởng kinh tế” tổ chức tại Hà Nội do Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch cùng với Quỹ Á - Âu (ASEF) kết hợp với Liên đoàn Quốc tế các Hội đồng nghệ thuật và Cơ quan Văn hóa (IFACCA) cũng đã có những dòm cương trực về ngành CNVH tại Việt Nam hiện thời.
Doanh thu bán vé từ sờ soạng các đơn vị này không vượt nổi con số 30 tỉ đồng/năm. Thiếu một nền kinh tế hổ lốn cho ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo.
Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Du lịch Hàn Quốc nhấn mạnh vai trò hiệp tác giữa nhà nước và tư nhân trong lĩnh vực sinh sản phim. Tiềm năng cho ngành CNVH ở Việt Nam rất lớn nhưng không được hiểu một cách đầy đủ cũng như được vỡ hoang hiệu quả. Ngành công nghiệp này tạo ra khoảng 3% GDP (tương đương 500 tỉ euro/năm) và giải quyết việc làm cho khoảng 6 triệu người.
Vừa là thực trạng vừa là nguyên do kìm hãm. Việt Nam nên hạn chế điệp khúc “xin cấp kinh phí” mà nhà nước hãy tạo một cơ chế thông thoáng để nhà đầu tư yên tâm bỏ tiền làm và có khả năng thu lợi nhuận cao từ ngành CNST.
Các diễn giả đều cho rằng. Đặc biệt. Tiếp cận nguồn tài chính khó khăn… Mới đây. Trong khi trên thực tế cho thấy. Lương bổng. Do đó. Năng lượng Mới số 282 Nguồn thu lớn bị bỏ quên Ở các quốc gia phát triển như châu Âu chả hạn thì thuật ngữ công nghiệp văn hóa (CNVH) hay còn gọi là công nghiệp sáng tạo (CNST) gắn với giao hội các ngành kinh tế khai phá và dùng hiệu quả tính sáng tạo kỹ năng sở hữu trí não.
Việt Nam đi sau có điều kiện kế thừa và rút ra kinh nghiệm từ các nước đi trước trong xây dựng chính sách.
Chúng tôi thấy sự mơ hồ và cả băn khoăn của những người mà chúng tôi tham vấn. Riêng bờ cõi Hongkong (Trung Quốc) 85% thu nhập quốc dân có được từ nguồn thu dịch vụ tiêu khiển. Còn chuyên gia Tom Fleming của UNESCO thì nhận định.
Nghệ thuật trình diễn. Nhạc KPop. Mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ. Có nhẽ trước mắt. Ở châu Âu. CNVH đã trở thành ngành cột trụ trong nhiều nền kinh tế.
Thiếu các tổ chức phi chính phủ thực sự trong ngành. Cả nước có 129 đơn vị trình diễn nghệ thuật. Trong 15 năm trở lại đây. Âm nhạc. Ngành công nghiệp sáng tạo đã đem đến khoản lợi nhuận kếch xù cho nhà nước này từ điện ảnh. Chỉ tính riêng bộ phim hoạt hình “Doremon” của Nhật Bản có tổng doanh thu lên đến hơn 2 tỉ USD.
Quản lý phức tạp. Phim ảnh và video. Trên thế giới. Tạo công ăn việc làm. Truyền hình. Trong đó có 12 đơn vị trực tiếp do Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch quản lý. 000 cần lao chỉ tính riêng trong năm 2007. Riêng lĩnh vực điện ảnh đã thấy Việt Nam tụt hậu xa so với thế giới.
Giải trí kỹ thuật số. Sinh sản các sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa văn hóa tầng lớp. Việt Nam còn tụt hậu Nhìn ra khu vực và thế giới. Thiết kế mỹ thuật. Đưa ra tầm nhìn và những cam kết của Chính phủ trong phát triển CNVH. Lăng xê… Nhật Bản và Hàn Quốc là hai quốc gia có ngành CNVH rất phát triển. Việt Nam có CNVH nhưng thực sự nó chưa “ra hồn”.
Và chuyên gia William Codjo của UNESCO cho rằng. Ngành CNVH ở Việt Nam hiện mang một khuôn mặt buồn. Nói là có cũng được và không cũng được! Phó viện trưởng Viện Văn học Nghệ thuật còn cho rằng. Nhiều quan điểm cho rằng. Chính phủ Hàn Quốc rất chú trọng việc tuyên truyền để người dân ủng hộ phim nội. Việt Nam đang tụt hậu quá xa trong ngành CNVH. Đưa công nghệ hiện đại vào quy trình sản xuất.
Thiếu một hệ sinh thái sáng tạo tổng thể. Trong thời kì nghiên cứu tại Việt Nam. TS Tom Fleming - chuyên gia về CNVH UNESCO cũng có những phân tích khá lạc quan đối với Việt Nam khi cho rằng diễn đàn này rất có ý nghĩa. Mọi người hay nghĩ một cách hẹp đó chỉ là văn hóa truyền thống. Các lĩnh vực trong CNVH đã xuất hiện nhưng chúng ta lại chưa có được chiến lược tổng thể để phát triển.
Ẩm thực… Tỷ lệ chiếu phim nội địa Hàn Quốc lên đến 51% và doanh thu cũng cao hơn phim Hollywood chiếu tại thị trường nước này. Chúng ta cần học hỏi những nước trong khu vực châu Á như Thái Lan. Trong khi Việt Nam có nhiều giá trị văn hóa có thể phát triển thành ngành CNST có giá trị quốc tế. Điện nước. Nhật Bản. Không bằng phần nhỏ doanh thu của một công ty tổ chức biểu diễn tư nhân trong nước.
Mỹ phẩm. Chả hạn. Vì vậy mà mỗi đơn vị chỉ dựng được 2-3 vở diễn trong một năm. Mỗi năm sản xuất khoảng 10 phim nhựa. Văn hóa cũng tạo ra của cải. Trong đó cơ chế tài chính là tiên quyết và mấu chốt trong phát triển ngành CNST. Tại Việt Nam đã có nhiều hội thảo xung quanh việc phát triển ngành CNVH Việt Nam với sự tham dự của nhiều tổ chức quốc tế.
Chính sách. Để phục vụ cho chiến lược này là những dự án nền móng. TS Lương Hồng Quang - Phó viện trưởng Viện văn chương Nghệ thuật từng cho rằng. In ấn xuất bản. Trước hết. Trong đó có 11 ngành được liệt vào danh sách này như lăng xê. Bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những giá trị của ngành công nghiệp sáng tạo Lý giải thành công này.
Du lịch. Thiếu sự lãnh đạo rõ ràng nên đã bỏ lỡ nhiều dịp phát triển. Hàn Quốc… trong lĩnh vực CNST. Tạo ra thương hiệu quốc gia và đóng góp đáng kể cho nền kinh tế của tổ quốc. Là vấn đề kiểm duyệt… hoặc nói đến CNVH là nghĩ đến chuyện thương mại hóa.
Trong đó có sự tham vấn của UNESCO. Kế đến là kinh nghiệm của nhiều nhà nước có nền CNST rất phát triển như Mỹ chả hạn. Chúng ta không khỏi chạnh lòng. Tạo bộ mặt rất hiện đại cho nền điện ảnh ở xứ sở Kim chi. Nhưng chỉ có 2-3 trong số phim này được người xem tiếp nhận ngoài thị trường. Chỉ tính riêng 12 đơn vị này mỗi năm nhà nước đầu tư nhàng nhàng 100 tỉ đồng nhưng trực tiếp vào vở diễn chỉ chừng 10 tỉ đồng.
Kiến trúc. Là vấn đề bản sắc. Muốn chiến lược và tầm nhìn khả thi thì phải có nền tảng đầu tư tốt. Tạo điều kiện phát triển phù hợp. Thị hiếu của người xem.
Các nhà làm phim đã bám sát sở thích. Bên cạnh đó là cơ sở hạ tầng văn hóa kém phát triển. Lôi cuốn các nhà phát hành phim trong khu vực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét